Có lẽ mấy giây sau, bọn lao nhao mới thấu hiểu hết tầm quan trọng, hết tai hoạ của sự việc vừa mới xảy ra, để mạnh đứa nào đứa nấy chạy bò lăn bò càng. Thằng em út ngóc đầu dậy, khóc oà. Điếng người, tôi ngồi chịu trận trước cái bàn, có con Cơ nằm im một cách dễ sợ, như đang sống, như đang thở, trên tấm bìa trắng ngà, dưới ánh trăng sáng vằng vặc. Tôi lấy hai tay ôm đầu thằng em cổ kiền hai ngấn vào lòng mình, mắt đăm đăm nhìn con Cơ như sợ nó nhảy bổ vào người, cho đến khi nghe tiếng má tôi rầy. Và một khi đã hoàn hồn, tôi nhìn qua bên cạnh thấy anh Thao ngồi chết trân, và nhìn trở lại con Cơ mới nhận ra vẫn còn có ngón tay trỏ của ai đó đặt lên trên con Cơ, như cố sức đè nó xuống để nó không thể cựa quậy được.
Sáng ra tôi ráng thức dậy sớm hơn mọi ngày, giặt một thau đồ trước khi đi học, toàn là quần.
Trong nhiều ngày chúng tôi nhìn nhau, thông đồng, không hó hé đến chuyện tối hôm ấy, đến chuyện cầu Cơ, đến chuyện con Cơ nữa. Nhưng má tôi vẫn biết, không những má tôi tịch thu, dấu biệt con Cơ mà còn hăm mét ba tôi khiến các anh tôi phải năn nỉ má tôi gần gãy lưỡi. Từ đó về sau, anh tôi vẫn còn kể chuyện ma lai song không bao giờ đả động đến chuyện cầu Cơ nữa.
Và tôi để ý, sau đêm cầu Cơ, anh Thao thường ngồi trước bàn học, sách vở mở ra trước mặt mà không thấy lật trang. Năm đó anh Thao thi rớt, trở về miền Trung, rồi bặt tin luôn.
Tôi gặp lại anh kế tôi ở Sài gòn, năm 90. Trước mặt đám con cháu, của anh, ngồi lổm ngổm, vui miệng anh nhắc những kỷ niệm thuở nhỏ, trong đó có chuyện cầu Cơ. Anh thêm mắm dậm muối khiến tụi nhỏ nghe chuyện ma mà cười rần rần, rồi còn hỏi "thiệt hông, hồn nhập Cơ chạy thiệt hông ?". Anh tôi vỗ đùi cười ha hả "đặt chuyện kể nghe cho vui, thiệt gì, đẩy Cơ mệt chết luôn".
Nhưng sau đó anh kéo tôi ra chỗ vắng người, nói nhỏ "giữ bí mật, đừng để mấy đứa nhỏ dại dột bắt chước, tai hại khôn lường, cơ trời bất khả lậu. Kêu hồn lên, phá rầy người chết làm gì, mang tội. Thằng Thao, tội nghiệp, không biết bây giờ nó lưu lạc ở đâu…". Tôi chân thành "chuyện xưa rồi, bây giờ em nói thật, chính em đẩy Cơ". Anh tôi nghiêm mặt "em đừng đùa, chuyện linh thiêng, nói tầm bậy mang tội". Tôi nằn nì "chính em đẩy, bởi vì rõ ràng em muốn Cơ đi đâu, Cơ đi đó. Không hiểu sao em ghét cay ghét đắng anh Thao, em mắng ảnh hỗn, em trù cho ảnh thi rớt", tôi còn nói thêm "anh còn nhớ không, sau khi chỉ chữ q và chữ u, Cơ do dự trước chữ i ngắn và i dài, đó là tại em dốt chính tả", nhưng anh tôi khoát tay, giọng quả quyết "bộ em tưởng hồn không dốt chính tả à. Em không thể qua mặt được anh, em mà đẩy, anh biết ngay", rồi quay ngoắt đi như muốn chôn vùi chuyện cầu Cơ, một lần cho mãi mãi.
Không giãi bày được với anh mình, tôi bỗng ước mong ngày nào đó gặp lại anh Thao. Mong ước bâng quơ vậy mà thành sự thật, năm ngoái tôi gặp anh Thao trước cửa Nhà Bưu điện Sài gòn, hết sức tình cờ. Anh đi ra, tôi đi vô, cùng quay đầu ngó lại. "Phải em đó không?", anh Thao cảm động. Hỏi sao nhận ra, anh cười "trán vồ". Thật tình tôi không nhận ra anh, nhưng vẫn quay lại vì cảm nhận dáng... một Việt kiều.
Tôi trút bầu tâm sự "không hiểu sao hồi đó em ghét cay ghét đắng anh, nên em trù anh thi rớt..." và nằn nì "em đã đẩy Cơ rủa anh, trù anh". Anh Thao hớn hở "vậy sao? ", rồi hóm hỉnh "vậy mà giấu kĩ quá ta, phải chi hồi đó anh biết... ", và hạ giọng "bây giờ muốn được em ghét một chút mà cũng không được nữa rồi ".
Trong quán ăn chật ních người, có mười khuôn bánh khoái bốc khói không ngừng. Không xa chỗ lửa củi cháy rừng rực, có hai Việt kiều ngồi đâu đầu nói chuyện, như chỉ có mình họ ở trên đời nầy.
"Chính là nhờ em ghét cay ghét đắng anh, trù anh nên anh thi rớt, làm lính thường, lính kiểng, không tham gia đánh nhau, sau này không phải đi học tập. Phải được em ghét thêm chút nữa, không chừng anh khá hơn... ", cũng vẫn cái giọng cà rỡn, không thay đổi, rồi anh thở dài "lúc ấy em còn nhỏ quá, nào đã hiểu gì". Tôi phản đối "không hiểu gì mà biết mắng anh hỗn để bịt miệng anh, nhỏ mà biết dùng chữ hỏng, thay chữ rớt vì biết chú anh người bắc, nhỏ mà hiểu rất mau lẹ là mình đang nắm quyền lực trong tay, điều khiển được Cơ, làm khổ được người khác, thậm chí trả thù người...", anh Thao lại đùa "trả thù người đã ký đầu em vì em dốt toán chứ gì?". Tôi nắm lấy cơ hội "không những dốt toán mà còn dốt chính tả, chữ quỷ mà phân vân không biết i ngắn hay i dài, thì là em chớ không ai vô đó, anh còn nhớ con Cơ dụ dự không? ". Anh buồn rầu "nghe chữ hỏng rồi, anh đâu còn tâm trí để biết quỷ hay ma, song anh cũng ráng dí con Cơ xuống mặt bàn vì anh có cảm tưởng nó còn đang cọ quậy, cứ sợ nó chồm lên chụp hai đứa mình". Tôi định nói thêm "quỷ..., không phải em nghĩ ra, cũng không phải anh, chắc là anh... " nhưng tôi chỉ nuốt nước miếng, bậm môi, mắt tự nhiên cay xè, chắc bị... khói.
Ông Trời như muốn sắp đặt cho nạn nhân và thủ phạm ngồi bên nhau lâu hơn hay sao mà sau khi ăn gần chục cái bánh xèo dòn rụm, nóng hôi hổi, mỗi cái bằng bàn tay với một số lượng rau sống tươi roi rói, thì trời đổ mưa, mưa xối xả, mưa nổi bong bóng.
Tôi đang ăn bỗng nghẹn, không thể ăn được nữa và chỉ muốn nói cho hết những gì chất chứa trong lòng "anh biết không, nếu hai anh trì phía sau, em không thể đẩy con Cơ một mình được, nhưng em chỉ cần nhích nhẹ nó qua một bên thì hai anh đi theo, mà đi theo là đã đẩy, là đã trợ lực. Em chỉ cần xoay qua xoay lại con Cơ là được hai anh tiếp sức ngay, con Cơ trở thành nhẹ tênh, điều khiển hướng đi không khó. Hai anh đưa ngón trỏ đi theo là đã đẩy, đã trợ lực cho con Cơ rồi..." Tôi tiếp tục phân tích, chứng minh lực đẩy con Cơ là xuất phát từ hai cánh Cơ, một cách hùng hồn, khoa học, nói như sợ bị cướp lời, trong khi anh Thao cấm đầu ăn, không nói lời nào khiến tôi nóng ruột "anh nghe em nói không? ". Anh Thao gật gù "anh nghe, em cứ nói đi, anh nghe mà". Tôi hỏi vặn "anh không cảm nhận là chính mình đã đẩy sao?" Tôi nói câu này đúng lúc anh Thao vừa ăn xong cái bánh khoái cuối cùng, không còn gì để ăn nữa, bỏ đủa xuống bàn, ngồi trầm ngâm.