Ngày 27.7 là dịp để những người đang hít thở bầu không khí không có mùi khét lẹt của đạn bom, mùi tanh của máu… tự thấy mình có trách nhiệm ngồi mà suy nghĩ về công đức những người xây nền độc lập tự do. Mỗi người có một cách suy nghĩ, một vấn đề để nghĩ khác nhau. Riêng tôi cứ đau đáu về các bà má chiến sĩ.
Má Hai
Má thứ nhất mà tôi đã gặp cách đây gần 20 năm. Má tên Nguyễn Thị Hai, nhà ở ấp Vàm Lẻo, xã Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Vảm Lẻo là vùng căn cứ cách mạng, nên chiến tranh diễn ra ở đây có cường độ ác liệt nhất Bạc Liêu. Pháo bầy, bom thảm và những cuộc càn… có lúc chiến tranh “hô biến” hơn 150 nóc gia của ấp không còn trên mặt đất. Ấp có cái đám giỗ hội để tưởng niệm 17 người chết trong một ngày. Vì thế chiến tranh đã qua hơn 10 năm mà ấp Vàm Lẻo vẫn chưa gượng dậy được. Chiến tranh đã hút sức người sức của đến “hơi cùng lực kiệt”. Nhà má Hai là một căn nhà lá nhỏ nằm trên bờ đê. Trong nhà ngoài cái bàn thờ và hai chiếc giường ngủ thì không còn một thứ gì đáng giá khác. Trên chiếc bàn thờ đơn sơ ấy có đến 4 tấm bằng tổ quốc ghi công.
Tôi hỏi chị Nguyệt, con má Hai về chuyện làm ăn. Chị bảo: “Tôi goá bụa, tay xách nách mang năm đứa con, lại phải nuôi mẹ già nên khổ lắm, cậu ơi. Hổm rày má tôi thèm ăn canh chua cá lóc mà tôi còn chưa có tiền nấu cho bà ăn”.
Thấy tôi nhìn má Hai đang lụm cụm lần vách ra cửa trước, chị Nguyệt nói tiếp: “Má tôi khóc hoài, khóc đến mấy chục năm nên mắt má mù luôn. Mà bây giờ bả lẫn lắm rồi, bữa nào cũng kêu dẫn ra hàng ba để ngồi ngó ra đồng. Mắt mù có thấy gì đâu mà cũng cứ ngó. Dẫn vô rồi cũng lần vách ra ngồi bất động hàng mấy giờ đồng hồ. Ai hỏi ngồi làm gì thì bảo: nhìn coi mấy đứa nó về chưa! Mà mấy cậu ơi, còn ai nữa đâu mà về, tôi có một người chồng và ba anh trai đều hy sinh cả”.
Câu chuyện của chị Nguyệt làm tôi rớt nước mắt. Chiến tranh đã đày đoạ những người mẹ đến dường ấy. Tôi giấu nước mắt, lầm lũi tắt đường đồng về. Gió chiều đi qua cánh đồng rộng, thổi vi vu lên những mái lá xóm Vàm Lẻo và nó thổi thông thốc vào lòng tôi, cái niềm xốn xang ray rứt. Tôi ngoái đầu nhìn về phía nhà má Hai, má vẫn ngồi đó nhìn xa xăm ra cánh đồng rộng. Bóng má hiu hắt, lẻ loi trong buổi chiều tàn.
Về đến cơ quan tôi mới chợt nhớ rồi tự trách mình: tại sao không giúi vào tay chị Nguyệt một ít tiền, dù đó là khoản tiền nhỏ để mua con cá lóc nấu canh chua cho má? Thế là tôi ray rứt. Ba tháng sau tôi trở lại để giải toả sự ray rứt trong lòng. Thế nhưng, má đã đi xa rồi, về miền thăm thẳm. Tôi đứng chôn chân chỗ má ngồi đón những đứa con không bao giờ về mà ứa nước mắt rồi nghiệm ra rằng đời mình lại thêm một lần trễ một bước chân.
Cô tôi
Bà má chiến sĩ thứ hai là cô ruột của tôi. Cô tên Phan Thị Bông, nhà ở xã Vĩnh Trạch, thị xã Bạc Liêu. Hồi đình chiến 1945, nhà cô tôi giàu nhất xóm, với hơn 100 công ruộng, cả ngàn con vịt đẻ, mấy chục khẩu đìa… Bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, bốn người con là lao động chính của gia đình đều tham gia kháng chiến. Nhà cô nuôi chứa cán bộ, giặc phát hiện, chúng đốt cháy sạch, một căn nhà ba gian và tài sản cả đời tích góp. Đất nước giải phóng, hai người con cô về thân thể không lành lặn, và hai người kia thì hy sinh. Trong đó có anh bảy Huyện hy sinh trong trường hợp mất tích. Không nhớ từ khi nào cô tôi trở nên tâm thần, ngớ ngẩn. Ngày thì ra đồng làm quần quật để cố quên nỗi đau. Nhưng khi đêm đến thì bà vào mùng ngồi như một pho tượng, ngồi suốt năm này qua tháng nọ. Tai như nghe ngóng điều gì, thần trí mơ màng như kẻ nhập đồng. Ai hỏi ngồi làm gì thì cô bảo: “Sợ thằng bảy Huyện nó về, ngủ quên, không ai đón nó tội nghiệp”.
Chiến tranh đã kết thúc gần 20 năm, thời gian đủ chứng minh một sự thật, vậy mà cô tôi vẫn hoang tưởng rằng anh bảy Huyện vẫn còn sống. Sự hoang tưởng ấy đã đày đoạ bà đến xác xơ, héo úa.
Một lần về thăm, nhìn một bà già hơn 70 tuổi vẫn dầm mình cấy lúa giữa đồng sâu trong một buổi chiều mưa tối đất, cổ họng tôi đắng ngắt, nếu không có chiến tranh thì cô tôi đâu có đến nông nỗi này. Dọn mâm cơm lên ăn chỉ có chén tương và một dĩa đậu bắp luộc. Tay cô tôi run rẩy gắp không dính một khúc đậu bắp. Tôi nhủ thầm trong bụng: bà già sắp chết rồi. Tôi rước cô về nhà tôi ở Cà Mau để mong lo cho bà mấy ngày ăn ngon, vợ tôi mua thịt ba rọi về kho tàu. Cô vẽ phần thịt nạc bỏ vào chén các con tôi, còn cô thì ăn phần mỡ. Cô bảo: “Bao nhiêu mỡ tao ăn cũng hết”. Cô ăn những cục mỡ to tướng một cách ngon lành. Nhìn cô ăn sự xót xa trỗi dậy trong lòng tôi, vợ tôi thì buông đũa vào buồng lau nuớc mắt. Hai đứa con nhỏ của tôi thì vô tâm, thấy cô ăn những cục mỡ to, chúng rúc đầu, lè lưỡi cười. Bỗng sự xót xa, ray rứt dồn nén thành một cơn giận vô cớ, tôi hét toáng lên: “Ai cho tụi mày hỗn, quỳ xuống xin lỗi bà cô mau…” Cô tôi ôm hai đứa con tôi, vợ tôi ôm cô tôi, tất cả họ đều khóc. Tôi đứng “như trời trồng”, một nỗi đau chảy khắp người tôi. Tối cô lại vào mùng ngồi bất động như một pho tượng. Nhìn cái bóng vòi vọi của một bà má chiến sĩ tôi nhận ra nỗi đau thanh khiết và dữ dội của chiến tranh.
Chuyến cô tôi ở nhà tôi chơi, tôi có dịp đi công tác Hà Nội, tôi mua về tặng cô chiếc khăn choàng Trung Quốc. Tôi bảo: “Lên máy bay rồi con mới thấy anh ở chung cơ quan mua được cái áo lạnh đẹp quá. Chuyến sau đi con mua cho cô”. Cô xếp và cất chiếc khăn rất kỹ, chỉ có đi đám cưới, đám giỗ cô mới đem ra choàng. Ai hỏi thì cô cười cười bằng mắt, rồi bảo: “Thằng Nghĩa đi Hà Nội mua cho tao đó”. Không bao lâu sau thì cô tôi qua đời để cho tôi thiếu cô một chiếc áo mà không bao giờ trả được.
Má tôi
Bà má sau cùng là mẹ đẻ ra tôi. Cũng giống như má Hai, cô tôi, má tôi cũng tặng cho đất nước những đứa con là lao động trụ cột của gia đình, để rồi bà ở nhà phải tần tảo sớm hôm nuôi bầy con nhỏ. Khi chị Hai tôi bị máy bay Mỹ bắn chết, anh Ba tôi hy sinh thì má tôi trở nên ngớ ngẩn và mang “bệnh liệu”. Chiến tranh đã chấm dứt nhiều năm rồi mà hễ vật gì rơi phát ra âm thanh to là má tôi liệu: “Xuống hầm, u bi tới rồi”. Thấy bộ đội ta đi thành hàng ở xa cũng ù té chạy và hô toáng lên: “Chạy mau, lính càn vô rồi”. Sau giải phóng tôi lớn lên lẽ ra phải ở nhà chăm sóc, đỡ đần cho má tôi thì tôi lại làm “người nhà nước”. Má tôi không nhờ được đứa con nào, bà cực cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt.
Suốt những năm làm cán bộ, tôi không mua được cho mẹ mình một cái áo. Để rồi có những dịp như hôm nay, ngồi nhớ lại các bà má, tôi lẩm bẩm như kẻ điên: mình thiếu má Hai một tô canh chua, thiếu cô Tư một chiếc áo và thiếu má đẻ của mình cả một cuộc đời.
Và trên đời chắc còn nhiều người cảm thấy có nợ với các má chiến sĩ. Nhiều má đã bình thản ra đi sau khi thực hiện sứ mệnh với đất nước. Các má còn sống thì đã 70 - 80 tuổi cả rồi, họ như chuối chín cây, một mai họ rụng, ta lại ngồi lẩm bẩm như kẻ điên.