Edward Touhey là một trong những người mà tôi mến. Ông ta ở gần nhà tôi và lái một chiếc xe hơi nhỏ, hở thuê cho mọi người. Ông có một tình-thần hiểu biết và hăng-hái, biết nghe chuyện và khéo nói chuyện. Một hôm ông ta và tôi bàn với nhau về những nhân-vật đã giúp cho nhân loại được nhiều, mặc dầu gặp những hoàn-cảnh khó-khăn. Ông ta hỏi tôi: -- Có bao giờ bà nghe tên Nathaniel Bowditch chưa? Tôi đáp là có được nghe một tên là Bowditch trong thuật hàng hải. Ông Edward nói:
-- Chính ông ta! Nathaniel Bowditch. Sanh năm 1973 và thọ sáu mươi lăm tuổi. Ðược đi học ở trường tới mười tuổi, rồi phải tự học, tự học tiếng La-tinh mà đọc được cuốn Pricipia của Newton. Hồi hai mươi mốt tuổi Bowditch đã là một nhà toán-học có tài. Ông ấy ra biển, nghiên-cứu vè hàng-hải; trong một chuyến đi, ông dạy cách tính trăng, và cách định vị-trí của tàu trên biển, cho hết thảy mọi người đưới tàu, cả cho người làm bếp. Sau ông viết một cuốn về thuật hàng-hải, một cuốn sách vào hàng cổ điển. Mộg anh chàng được đi học có ít năm, mà như vậy, cừ thật chứ?
Tôi đồng ý với Edward rằng Bowditch là một người bất chấp trở ngại. Có lẽ không ai bảo cho Bowditch rằng muốn thành một nhà khoa học thì điều-kiển thứ nhất là phải có một bằng-cấp đại-học, cho nên ông mới nhắm mắt tự học lấy những điều cần biết. Ðối với Nathaniel Bowditch, người đã phiêu lưu trên bãi biển, cũng nhưng đối với Edward Touhev, người đương lái xe trong châu thành Nưu Ước, trởi-ngại là một tiếng vô nghĩa.
Những tiếng đó vẫn còn được hạng người dùng, hàng người trách trách-nhiệm khi thất-bại. Hàng chục người bảo bạn rằng vì không được học trường đại-học, nên bị trở ngại trong đời; song tôi dám đánh cá với bạn rằng nếu họ có bằng-cấp đại học thì họ cũng kiếm được một lý lẽ khác để tự bào chữa khi họ thất bại. Người tinh thần già-giặn quyết chí vượt mọi trở ngại, thành thử không bao giờ nghĩ cách dùng nó để tự bào chữa cho mình.
Alexander Graham Bell có lần phàn-nàn với bạn thân và Joseph Henry, giác-đốc trường Simthsonian Institution ở Hoa-Thịnh-Ðốn, rằng do thiếu sự hiểu biết về điện mà bị trở ngại trong công việc. Henry nghe vậy không hề an ủi Bell, hoặc nói:
-- Buồn thật. Buồn thật. Anh chưa được cái may mắn học nhiều về điện.
Mà cũng không bảo rằng nếu Bell được cha mẹ cho ăn học lâu hơn thì công việc có phần dễ-dàng hơn. Chỉ bảo.
-- Thì học nó đi.
Và Alexnader Graham Bell học về điện, sau thành một nhà khoa-học có công nhất trong lịch-sử về môn truyền tin (sau này ông là người chế ra máy điện thoại)
Nghèo nàm phải là một trở ngại, một lý-do đích đáng để tránh trách nhiệm và bỏ cuộc không? Cựu thổng-đống Herbert Hoover hồi hỏi còi-cút, cha làm thợ rèn ở Iowa. Thomas J Walson, Giám đốc ủy ban "Máy kết toán vạn quốc" có hồi làm kết-toán-viên trong một hãng nhỏ không dùng máy kết toán, nương hai Mỹ-kim một tuần.
Những người thành công rực rỡ đó không hề cho rằng mình bỉ trở ngại vi cảnh nghèo. Họ bận công việc quá, có thì giờ đầu để mà phí vào sự than thân trách phận.
Robert Louis Stevension, thể chất bạc nhược tới nỗi gần thành một phế nhân suốt đời, mà không chịu để cho bệnh tật làm hại đời hoặc công việc của ông. Mỗi hàng ông viết đều rực rỡ ánh sáng, đều chứa chan tinh lực thanh khiết, mạnh mẽ của ông. Và nhờ ông thắng nổi cái trởi ngại là bệnh tật, mà nền văn học được phong phú lên vô cùng.
Biết bao vĩ nhân trên thế giới đã nổi danh mặc dầu gặp trở ngại, đôi khi là nhờ trở ngại nữa. Byron có tật trẹo chân, Jules César bị chứng phong thấp, Beethoven hóa điếc, Nã Phá Luân lùn tịt, Mozart bị bệnh lao, Franklin D. Roosevelt bị bệnh tê liệt, Helen Keller mù và điếc từ hồi nhỏ.
Danh ca Jane Froman bị một tai nạn máy bay ghế gớm, mà cô chiến đấu với bệnh tật để lấy lại sức khỏe và danh tiếng. Ðào hát bóng Suzan Ball bị cưa một chân mà vẫn tìm được hạnh phúc trong hôn nhân và thành công trên màn bạc cho tới khi chết.
Nhân nói về đào hát, tôi nhớ đến Sarah Bernahardt, đến "tiên nữ Sarah". Hồi nhỏ cô xấu xí lại là một đứa con hoang, ai cũng ghét bỏ, có cách nào mà ngóc đầu khỏi cảnh hạ tiện, nhớp nhúa ở chung quanh được. Vậy mà cô đã thành một đào hát tuyệt đẹp và bất thủ trên sân khấu.
Một bà bạn thân của tôi có một người con trai cao lớn đẹp trai, nhưng phải cái tật cà lăm tứ hồi nhỏ. Nhờ học rất giởi, cậu được chúng bạn mến, và tấn tới rất mau ở ban tiểu học. Trong thời gian đó, song thân cậu nhờ các nhà chuyên mon chữa tật cà lăm cho cậu mà vô công hiệu.
Một buổi chiều, cậu ở trường về, báo tin rằng bạn bè giáo sư cho cậu việc đọc diễn vẵn từ biệt trường.
Bồi cậu leo cầu thanh lên phòng ngủ để soạn bài diễn văn. Song thân cậu giúp cậu tìm ý, nhưng khôn khéo không nhắc chút gì về những nỗi khó khăn khi nên diễn đàn.
Ðêm phải lên diễn đàn, cậu đứng thẳng người, uy nghi vì vóc lớn, vai vuông, và bắt đầu nói. Thính giả imi phăng phắc vì nhiều người ngại cho lật cà lăm của cậu.
Cấu mới đầu nói chậm chạp, được thính giả tín nhiệm rôì nói hết mười lăm phút không hề lắp bắp hoặc ngập ngừng một lần nào, nhờ trong khi soạn bài diễn văn, cậu đã quyết thắng mọi trở ngại. Tiếng vỗ tay vang lên trong đám thính giả để thưởng công lao của cậu.
Roy L. Smith đã viết một truyện hay, một tiểu sử nhan đề là: Một đời sống đầy đủ -- ở ngưỡng cửa Âm-ti. Cuốn đó kể đời của Elmer Helms, một người mà hồi mới sanh ở Huntersville, xứa Ohia, bác sĩ đã phải chê:
-- Không có hy vọng gì em nhỏ nầy sống được. Nhưng Elmer Helms vẫn sống, mặc dầu bán thân bên phải bị tật nặng, và luôn trong chín chục nam, bị đau đớn dày vò thể xác không lúc nào ngớit. Vì không làm được việc gì năng nhọc, ông xoay ra đọc sách. Năm 1891, hồi hai mươi tám tuổi, ông thành một mục sư đạo tin lành. Hai lần thất bại xuýt làm giảm nghị lực của ông; nhưng John S. Huyler đề ý tới ông, giúp tiền cho ông, và chỉ trong ít tháng, ông thoái được tử thần, ra khỏi bệnh viện.
Sau Elmer Helms bất đầu xây cất nhà thờ, quyên tiền cho tôi tin lành, giúp đỡ các trường đại học và các dưỡng đường. Ông mục sư "một lá phổi" đó đã quyên được trên ba triệu Mỹ kim cho những công việc hữu ích. Năm sáu mưới chín tuổi, ông mới "về vườn" mà còn thuyết giáo trên một ngàn lần nữa, viết hai cuối sách, quyên 500.000 Mỹ kim cho tôn giáo và các việc từ thiện, giúp trong bạn quản trị của hai chục hội và bỏ ra năm vạn Mỹ kim tiền riêng của ông để cất một nhà thờ gần trường đại học Califonia.
Ông không bao giờ biết trở ngại là cái quái gì. Ông chỉ biết rằng ông có một đời để sống và một mục đích để đeo đuổi. Ông tận dụng quãng đời chín chục năm kỳ dị của ông, và nhắc tới tên ông, ai cũng nhớ ngay đến đức can đảm.
Ở các thời mà sự trẻ trung được quá ca tụng nầy, nhiều người già cho tuổi tác của mình là một trở ngại. Họ thường cảm thấy rằng mình bị xã hội cho ra rìa. Tôi còn nhớ một bà già bé nhỏ, bảy mươi tư tuổi hồi trước theo học lớp của tôi ở Nưu Ước. Cự không biết phải làm gì cho hết đời.
Củ đã dạy học cho tới ngày bị về hưu. Cụ dành dụm không được bao nhiêu, nên rất cần kiếm việc làm cho khỏi ngồi không và có thê tiền chi tiêu. Cụ nói rằng nhớ các trường dạy học, nên khi về hưu có hồi cụ lại các trường mẫu giáo kể chuyện cho trẻ nghe để kiếm tiền.
Tôi cho rằng việc đó hợp với cụ, và cụ có thể hoạt động hơn đển thành một người chuyên môn kể chuyện.
Tôi khuyến kích cụ và cụ hăng hái bước vào một nghề mới. Cụ đã nhận thấy rằng tuổi tác không phải là một trở ngại; trái lại, bây giờ cụ còn có nhiều khả năng hơn hồi trẻ nữa, và những kinh nghiệm của cụ làm cho truyện cụ kể say mê hơn.
Cụ có sáng kiến lại viện văn hoá Ford vạch chương trình cụ dự định kể chuyện cho trẻ em nghe. Những người trong viện đều thực tế muốn thấy rõ kết quả rồi mới quyết định. Vậy mà cụ đã thuyết phục phục được họ; họ chịu mướn cụ vì những chuyện của cụ hấp dẫn.
B6y giờ tì cụ hăng hái và tự tin như một thiếu nữ dưới hai chục tuổi, cụ tiếp tục đi khắp nơi đem niêm vui vẻ cho hàng ngàn trẻ em. Cụ không chịu để cho tuổi tác thành một trở ngại, cũng không việc nó làm cớ dể ngồi không. Cụ không nói: "Tôi già rồi, kiếm ăn gì nhữa". mà cụ bồi bổ tài năng cùng kinh nghiệm để hoạt động. Tuy bảy mươi tư tuổi, mà cu chưa già. Tuổi tác mà người khác cho là một trở ngại thì cụ cho là một kích thích.
Goerge Bernard Shaw không chịu được hạng người phàn nàn bị trở ngại vi hoàn cảnh. Ông viết:
"Người ta luôn luôn đổ lỗi cho hoàn cảnh. Tôi không tin ở hoàn cảnh. Ở trên đời, kẻ thành công là những kẻ kiếm ra hoàn cảnh lợi cho mình, mà nếu kiếm không ra thì tạo nó ra".
Sự thực, nếu nghĩ đến trở ngại thì ai cũng có thể kiếm được một trở ngại nầy hay một trở ngại khác. Hồi trẻ, tôi buồn rầu lắm vì cao lớn hơn những bạn học của tôi. Phải sống nhiều năm rồi tôi mới thấy được điều này là; vóc người cao lớn, cũng như mọi cái khác, có thể bất lợi, mà cũng có thể lợi, tuỳ theo thái độ của ta.
Dù ta có một chân mà người láng giềng có hai chân; dù ta nghèo hơn, hoặc giàu hơn người đó; dù ta mập, hoặc ốm, xuấu hoặc đẹp, trắng hoặc đem, e lệ hoặc dạn dĩ; bất kỳ cái gì làm cho ta khác người cũng có thể làm một trở ngại cho ta được, nếu ta nghĩ nó là một trở ngại.
Hạng người tinh thần không già dặn luôn luôn sẵn sàng cho những cái khác người của họ là những trở ngại, còn hạng người già dặn thi cũng thấy những chỗ kém người của mình, nhưng vui vẻ nhận nó để cải thiện nó.