không bao giờ để lỡ, tứ sư đệ mưu trí hơn người, lục sư đệ kiếm thuật tinh thông, thất sư đệ mấy năm gần đây chuyên luyện ngoại môn võ công, về sau sẽ nội ngoại kiêm tu, cương nhu hợp nhất, ngoài y ra không còn ai ?
Ân Tố Tố chen vào:
- Còn bản thân nhị bá thì sao?
Du Liên Châu đáp:
- Ta tư chất ngu lỗ, không có sở trường gì cả, miễn cưỡng mà nói thì ta là người phải cố công nhiều nhất luyện tập bản môn võ công thầy truyền dạy cho.
Ân Tố Tố vỗ tay cười:
- Thì ra nhị bá là người giỏi nhất trong Võ Đương thất hiệp, nhưng vì khiêm tốn nên không nói ra đấy thôi.
Trương Thúy Sơn nói:
- Anh em chúng ta trong bảy người, đúng ra nhị sư ca võ công cao nhất. Mười năm không gặp nhau, tiểu đệ bây giờ đuổi không sao kịp được. Than ôi, không được ân sư dạy dỗ mười năm, tiểu đệ bây giờ đứng chót trong các anh em rồi.
Lời nói không khỏi có ý cảm thán. Du Liên Châu nói:
- Thế nhưng trong bảy anh em mình, văn võ toàn tài thì chỉ có một người thôi. Đệ muội, để ta nói cho cô nghe một chuyện bí mật. Năm năm trước, trong kỳ tiệc thọ ân sư chín mươi lăm tuổi, khi anh em đến chúc thọ, ân sư bỗng dưng không vui, nói: ?Trong bảy người đệ tử của ta, ngộ tính cao nhất, văn võ song toàn, chỉ có mình Thúy Sơn thôi. Ta vẫn định bụng sẽ cho y kế thừa y bát[3], ôi, tiếc rằng y phúc bạc, trong năm năm qua chết sống không biết ra sao, e rằng dữ nhiều lành ít?. Xem đấy, có phải sư phụ thương yêu ngũ đệ nhất hay không?
Ân Tố Tố mặt tươi như hoa, trong lòng vui sướng khôn cùng, còn Trương Thúy Sơn trong lòng hết sức cảm kích, nước mắt rưng rưng. Du Liên Châu nói:
- Bây giờ ngũ đệ bình yên trở về, thọ lễ dâng lên ân sư không có gì to lớn hơn thế nữa.
Vừa nói tới đây, bỗng thấy trên bờ sông có tiếng vó ngựa vọng tới. Tiếng vó ngựa từ đông sang tây, trong đêm vắng nghe rõ ràng có bốn kỵ sĩ. Ba người đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm những con ngựa này suốt đêm chạy vội như thế, ắt có liên quan gì đến mình. Ba người không muốn chuyện rắc rối, nhưng đâu phải là kẻ nhát gan, thành thử không ai đề cập đến.
Du Liên Châu nói:
- Kỳ này khi ta hạ sơn, sư phụ cũng vừa bế quan tĩnh tu. Mong rằng lúc mình lên núi, lão nhân gia đã khai quan rồi.
Ân Tố Tố nói:
- Cha của tiểu muội trước đây có nói với em rằng, trong đời chỉ khâm phục có hai người thôi, một người là Dương giáo chủ của Minh Giáo, ông ta đã qua đời rồi, người kia là tôn sư Trương chân nhân. Ngay cả bốn đại cao tăng của phái Thiếu Lâm ?Kiến Văn Trí Tính?, cha em cũng không có gì bội phục cả. Trương chân nhân năm nay đã tròn trăm tuổi, tu trì thâm hậu đời nay không ai sánh kịp. Bây giờ lại còn bế quan, chắc là để tu luyện thuật trường sinh bất lão chăng?
Du Liên Châu đáp:
- Không phải, ân sư muốn suy nghĩ về võ công.
Ân Tố Tố hơi kinh ngạc, hỏi:
- Võ công của lão nhân gia đã cao siêu không biết đâu mà lường rồi, còn nghiên cứu thêm gì nữa? Không lẽ trên đời còn có người nào là địch thủ của người nữa ư?
Du Liên Châu nói:
- Từ năm ân sư chín mươi lăm tuổi trở đi, năm nào cũng bế quan chín tháng. Lão nhân gia nói rằng, võ công của phái Võ Đương, chủ yếu là từ bộ Cửu Dương Chân Kinh. Thế nhưng năm xưa khi ân sư được Giác Viễn tổ sư truyền thụ, tuổi còn quá nhỏ, lại không biết chút võ công nào. Giác Viễn tổ sư cũng không có ý dạy, chỉ nhiệm ý đọc cho ân sư nghe, thành ra võ công bản môn vẫn còn có khuyết điểm. Bộ Cửu Dương Chân Kinh này nghe Giác Viễn tổ sư nói là do Đạt Ma tổ sư truyền lại, nhưng ân sư nói là người càng suy nghĩ, càng thấy chuyện đó không phải là thật.
Một là những điều bí áo trong chân kinh so với võ công của phái Thiếu Lâm khác nhau xa, xem ra gần với Đạo gia võ học của Trung Nguyên hơn; hai là bộ Cửu Dương Chân Kinh này không viết bằng chữ Phạn, mà bằng tiếng Trung Quốc, viết xen kẽ trong các hàng chữ Phạn trong cuốn kinh Lăng Già. Thử nghĩ Đạt Ma tổ sư tuy diệu ngộ Thiền lý, võ học uyên thâm, nhưng ông ta từ Thiên Trúc qua, chưa chắc đã tinh thông văn tự Trung Quốc. Một bộ võ kinh quan trọng đến như thế, sao không viết trên giấy thành sách, mà lại viết giữa hai hàng chữ của một bộ kinh?
Trương Thúy Sơn gật đầu xem là đúng, hỏi thêm:
- Vậy ân sư suy nghĩ về đạo lý trong này như thế nào?
Du Liên Châu đáp:
- Ân sư cũng nghĩ không ra, người cho rằng có lẽ do một vị cao tăng Thiếu Lâm đời sau sáng tác, nhưng giả thác tên của Đạt Ma tổ sư. Ân sư vẫn nghĩ nếu như sự hiểu biết về cuốn Cửu Dương Chân Kinh này không hoàn toàn, thì sao mình không tự sáng chế ra? Mỗi năm sư phụ bế quan suy nghĩ, cốt để mở ra một phái võ học mới, khác hẳn với võ công các môn phái đang truyền hiện thời.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nghe xong, cả hai đều chắc lưỡi ca ngợi. Du Liên Châu nói tiếp:
- Năm xưa khi nghe Giác Viễn tổ sư truyền thụ Cửu Dương Chân Kinh chỉ có ba người, một là ân sư, một người nữa là Vô Sắc đại sư của phái Thiếu Lâm, còn một người đàn bà, chính là tổ sư khai sáng ra phái Nga Mi Quách Tương Quách nữ hiệp.
Ân Tố Tố nói:
- Tiểu muội từng nghe gia gia em nói rằng, Quách nữ hiệp là một người thân thế rất lớn, cha của bà ấy là Quách Tĩnh, Quách đại hiệp, mẹ của bà ấy là bang chủ Cái Bang Hoàng Dung, khi thành Tương Dương thất hãm, hai ông bà Quách đại hiệp đều tuẫn nạn.
Du Liên Châu đáp:
- Đúng vậy. Ân sư chúng tôi trước đây từng có duyên gặp được hai ông bà một lần trên đỉnh Hoa Sơn, mỗi khi nhắc đến nhân phong hiệp cốt của hai vị, tấm lòng vì nước vì dân, sư phụ thường khuyên anh em chúng tôi phải noi gương vợ chồng Quách đại hiệp.
Chàng lặng người hồi lâu, nói tiếp:
- Năm xưa ba người được truyền Cửu Dương Chân Kinh, ngộ tính mỗi người một khác, căn bản cũng lại càng cách biệt. Nếu xét về võ công thì Vô Sắc đại sư cao hơn cả, Quách nữ hiệp là con gái của Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ, sở học rộng nhất, còn ân sư lúc đó hoàn toàn không có căn cơ gì, nhưng cũng chính vì thế, sở học lại tinh thuần hơn hết. Trong ba phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi thì một phái được chữ ?cao?, một phái được chữ ?bác?, còn một phái được chữ ?thuần?. Ba phái mỗi đằng đều có sở trường, nhưng cũng phải nói là cũng có sở đoản.
Ân Tố Tố nói:
- Thế thì vị Giác Viễn tổ sư võ công chắc ghê gớm lắm, trăm năm không có được một người, phải không?
Du Liên Châu đáp:
- Không phải, Giác Viễn tổ sư không biết võ công. Ông ta ở trong chùa Thiếu Lâm giữ Tàng Kinh Các, chỉ thích sách thành mê, không kinh nào không đọc, không kinh nào không thuộc lòng. Ông ta vô tình đọc được Cửu Dương Chân Kinh, cũng chẳng khác gì tụng kinh Kim Cương, kinh Pháp Hoa vậy thôi. Ông nhớ trong bụng, nhưng những điều võ học bác đại tinh thâm trong đó, tuy cũng lãnh ngộ nhưng chỉ luyện nội công, còn võ thuật hoàn toàn không biết gì cả.
Chàng bèn kể lại chuyện Cửu Dương Chân Kinh thất lạc ra sao, và những chuyện chưa hề ai nói tới kể cho Ân Tố Tố nghe. Chuyện đó Trương Thúy Sơn đã từng nghe sư phụ nói qua rồi, nhưng Ân Tố Tố lần đầu được nghe, rất hứng thú, nói:
- Hóa ra đời trước của phái Nga Mi cùng với phái Võ Đương có liên quan sâu đậm đến thế. Sao vị Quách Tương Quách nữ hiệp không lấy Trương chân nhân nhỉ?
Du Liên Châu đáp:
- Ân sư và Quách nữ hiệp chia tay dưới chân núi Thiếu Thất rồi, về sau không gặp lại nữa. Ân sư nói, Quách nữ hiệp trong lòng in sâu một bóng hình, chính là Thần Điêu đại hiệp Dương Quá, người ngoài thành Tương Dương dùng đá ném chết Đại Hãn Mông Cổ. Quách nữ hiệp đi khắp thiên hạ nhưng tìm không ra Dương đại hiệp, đến năm bốn mươi tuổi bỗng nhiên đại triệt đại ngộ, xuất gia làm ni cô, về sau khái sáng phái Nga Mi.
Ân Tố Tố kêu ?A? một tiếng, thương thầm cho Quách Tương, đưa mắt nhìn Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn lúc ấy cũng liếc nhìn Ân Tố Tố, bốn mắt gặp nhau, đều nghĩ thầm: ?Hai người mình trên trời dưới đất, mãi mãi không xa nhau, so với vị Quách nữ hiệp khai sáng phái Nga Mi kia, thật may mắn hơn nhiều?.
Du Liên Châu bình thường trầm mặc ít nói, có khi mấy ngày không nói một câu, nhưng từ khi gặp lại Trương Thúy Sơn sau nhiều năm xa cách, vui vẻ khác thường, cách ăn nói trở lại sắc sảo. Chàng ở gần Ân Tố Tố mươi ngày, biết nàng bản tính không phải là người xấu, chỉ có điều gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, từ thuở còn thơ đã tai nghe mắt thấy toàn chuyện tà ác, cho nên thiện ác không phân, nhiễm cái tính thích giết người. Từ khi nàng làm vợ Trương Thúy Sơn mười năm nay, khí chất đã biến hẳn, nên những ác cảm khi mới gặp cũng dần dần tiêu trừ, thấy nàng tính tình chân thật, so với bọn danh môn chính phái tự cao tự đại gàn dở còn có phần thẳng thắn hơn.
Lúc ấy bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa vang lên từ hướng đông truyền tới, chẳng mấy chốc đã vượt ngang hông thuyền đi về hướng tây. Trương Thúy Sơn làm như không nghe thấy, nói:
- Nhị ca, nếu như sư phụ mời các cao thủ của hai phái Thiếu Lâm, Nga Mi cùng nghiên cứu, lấy sở trường của người bổ túc cho sở đoản, cả ba phái võ công sẽ cùng đại tiến.
Du Liên Châu vỗ đùi một cái, nói:
- Đúng đấy, sư phụ nói chú ngày sau sẽ thừa thụ y bát môn hộ, quả thực không sai chút nào.
Trương Thúy Sơn nói:
- Ân sư chỉ vì tiểu đệ không có ở bên cạnh, cho nên lúc nào cũng nhớ mong. Kẽ lãng tử đi xa không về, trong lòng người mẹ hiền, lại coi hơn đứa con hiếu hạnh ở ngay bên cạnh. Thực sự tiểu đệ tài năng lúc này, dĩ nhiên so với đại ca, nhị ca, tứ ca không bằng đã đành, mà ngay cả lục đệ, thất đệ so với tiểu đệ cũng còn hơn nhiều.
Du Liên Châu lắc đầu:
- Không hẳn thế. Nếu lúc này lấy võ công mà luận, dĩ nhiên chú không bằng anh. Thế nhưng truyền nhân y bát của ân sư, là người mang trọng nhiệm làm sáng danh võ học. Ân sư thường nói rằng, thiên hạ lớn lao như thế, chuyện vinh hay nhục của phái Võ Đương nào có đáng gì? Thế nhưng nếu tinh cứu áo bí của võ học, tuyển chọn truyền nhân cho kỹ càng, trước là để võ công của hạng người chính nhân quân tử kẻ tà ác không theo kịp được, kế đến là kết hợp nghĩa sĩ trong thiên hạ, khu trừ Thát Lỗ, lấy lại giang sơn, đó mới là làm tròn cái bổn phận của kẻ học võ chúng ta. Vì thế y bát truyền nhân của ân sư, trước là tâm thuật, sau là ngộ tính. Nói đến tâm thuật, anh em ta bảy người không khác nhau bao nhiêu, nhưng ngộ tính thì em là cao hơn hết.
Trương Thúy Sơn xua tay nói:
- Cái đó bởi vì ân sư nghĩ đến tiểu đệ, nên nhất thời hứng đến mà nói thế. Nếu quả thực ân sư có ý đó chăng nữa, tiểu đệ cũng vạn vạn không dám nhận.
Du Liên Châu mỉm cười, nói:
- Đệ muội, cô vào bảo vệ cháu Vô Kỵ, đừng để nó kinh hoảng, bên ngoài này đã có ta và ngũ đệ lo liệu.
Ân Tố Tố đưa mắt nhìn quanh, thấy bốn bề tĩnh mịch tuyệt nhiên không có gì khác lạ, nghĩ thầm không biết nhị ca có hoa mắt không. Bỗng dưng Du Liên Châu lớn tiếng nói:
- Du nhị và Trương ngũ của núi Võ Đương đi ngang qua quí địa, xin thứ tội lễ thứ không chu toàn. Vị bằng hữu nào đó nếu có hứng, xin mời lên thuyền uống một chén rượu được chăng?
Câu nói của chàng vừa dứt, thấy trong đám lau lách có tiếng mái giầm khua, sáu chiếc thuyền nhỏ tiến ra thành hình chữ nhất, chặn ngang mặt sông. Từ một chiếc thuyền có tiếng rít, bắn ra một mũi hưởng tiễn[4], trong những bụi cây thấp bờ sông phía nam tiến ra chừng mươi hán tử nai nịt gọn gàng, mặc toàn màu đen, tay cầm binh khí, trên mặt bịt khăn mỏng cũng màu đen, chỉ để lộ đôi mắt.
Ân Tố Tố trong lòng thật bội phục: ?Vị nhị bá này quả thực danh bất hư truyền, tài ba ghê gớm thật?. Nàng thấy địch nhân quá đông nên vội vàng vào trong khoang thì Vô Kỵ đã sợ hãi tỉnh dậy. Ân Tố Tố mặc quần áo cho con, hạ giọng nói:
- Cục cưng của mẹ ơi, đừng có sợ.
Du Liên Châu lại nói:
- Trước mặt là vị bằng hữu nào đó, Võ Đương Du nhị, Trương ngũ có lời hỏi thăm.
Thế nhưng sáu chiếc thuyền chỉ có người chèo phía sau, không thấy ai khác, cũng không ai trả lời.
Du Liên Châu đột nhiên tỉnh ngộ, kêu lên:
- Chẳng lành rồi.
Chàng lắc mình phóng ngay xuống nước. Du Liên Châu từ bé sống ở Giang Nam nên bơi lội rất giỏi, vừa xuống nước thấy bốn người tay cầm dùi sắt, đang lặn dưới nước bơi tới toan đục đáy thuyền, để bắt sống bốn người.
Chàng nép vào mạn thuyền, đợi họ bơi tới gần, hai tay tung ra điểm trúng huyệt đạo của hai người, tiếp theo giơ chân đá vào hông một người khác, điểm huyệt ?Chí Thất?. Người thứ tư kinh hoảng toan chạy, Du Liên Châu vung tay trái ra, nắm được cổ chân y, ném vọt lên trên thuyền. Ba người kia bị điểm huyệt nếu không cứu ngay ắt sẽ chết đuối nên chàng cầm từng người một ném lên xong mới trèo lên.
Người thứ tư kia bị ném lên sàn thuyền liền lăn một vòng, tung mình nhảy lên, giơ dùi đâm vào ngực Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn thấy y võ công tầm thường, không thèm né tránh, thò tay trái ra, nắm được cổ tay y, tiếp theo cùi chỏ thúc ra, đánh trúng ngay huyệt đạo trên ngực. Người đó chỉ kêu lên một tiếng rồi ngã lăn ra.
Du Liên Châu nói:
- Trên bờ hình như có mấy hảo thủ, mình coi như đã đủ lễ rồi, không cần phải nể nang gì nữa, cứ xông tới đi.
Trương Thúy Sơn gật đầu, ra lệnh cho lái đò cứ việc tiến lên, đi dần tới sáu chiếc thuyền kia. Du Liên Châu nhắc bốn người bị bắt lên, giải khai huyệt đạo rồi ném qua. Cũng thật lạ, bên kia những thuyền đó không ai lên tiếng, mà trên bờ mươi người áo đen cũng lặng thinh tưởng như họ đều câm cả. Bốn người thợ lặn liền chui vào khoang, không thấy ra ngoài nữa.
Thuyền đi song song với sáu chiếc thuyền nhỏ, đang toan vượt lên trước, bỗng từ bên trong một chiếc thuyền bên kia, người chèo thuyền đột nhiên vung tay hai cái, nghe bình bình hai tiếng, gỗ bay tứ tán, tay lái thuyền họ đang ngồi đã bị gãy nát, chiếc thuyền lập tức quay ngang. Thì ra tên lái đò nọ ném ra hai chiếc ngư pháo dùng để ném cá, nhưng những quả pháo này thật lớn, nhồi nhiều hỏa dược nên sức nổ rất mạnh.
Du Liên Châu bình thản như không, nhẹ nhàng nhảy sang thuyền đối phương. Chàng tài đã cao mà mật lại lớn, nên chỉ qua hai tay không. Tên chèo thuyền trên chiếc thuyền nhỏ kia cứ tiếp tục chèo về trước không để ý đến việc có người nhảy qua. Du Liên Châu quát lên:
- Kẻ nào ném ngư pháo đó?
Người chèo thuyền đó lặng thinh không trả lời. Du Liên Châu tiến vào khoang thuyền, thấy có hai người ngồi bình thản quay mặt vào nhau nhưng không tỏ vẻ gì muốn nghinh địch. Du Liên Châu nắm cổ hai người giơ lên quát hỏi:
- Các ngươi là bù nhìn à?
Hai người đó không trả lời. Chàng là loại cao thủ hạng nhất nên giữ thân phận không muốn dùng võ lực tra hỏi, nên lập tức quay ra ngoài thuyền, thấy Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đã ôm Vô Kỵ sang thuyền con. Du Liên Châu giựt lấy mái chèo, chèo ngược giòng đi lên. Chỉ mới chèo được vài cái, Ân Tố Tố kêu lên:
- Bọn giặc này tháo nước vào rồi.
Thấy khoang thuyền nước tuôn ào ào hóa ra họ đã tháo nút ở đáy thuyền cho nước chảy vào. Du Liên Châu nhảy lên chiếc thuyền thứ hai, thấy thuyền cũng đã ngập nước đến một nửa, bèn quay đầu lại nói:
- Ngũ đệ, thế này thì mình không thể nào không lên bờ, thôi đi lên vậy.
Sáu chiếc thuyền đó quả nhiên đã được sắp đặt sẵn, giống như một chiếc cầu để khách lên bờ. Ba người ôm Vô Kỵ cùng nhảy lên bờ.
Hơn mười hán tử áo đen bịt mặt đã xếp thành một hình vòng cung chờ sẵn, vây bốn người vào trong. Những người đó đa số cầm trường kiếm, nhưng cũng có một số cầm song đao, hoặc nhuyễn tiên, không ai cầm các loại binh khí nặng.
Du Liên Châu khoanh tay đứng yên, từ trái qua phải nhìn khắp một lượt, thần sắc thản nhiên, không nói năng gì cả. Trong đám người một hán tử áo đen bỗng giơ tay vẫy một cái, vòng người liền mở ra thành hai nhóm, mọi người hơi khom mình, binh khí trong tay chỉ xuống đất, ôm quyền hành lễ, nhường đường cho họ đi. Du Liên Châu trả lại một lễ, ngang nhiên đi qua. Bọn người đợi Du Liên Châu qua xong, bỗng nhiên lại đóng cái vòng lại, chặn đường ba người gia đình Trương Thúy Sơn, ánh sáng lấp lóe, những món binh khí lại dựng lên.
Trương Thúy Sơn cười ha hả, nói:
- Hóa ra các vị chỉ muốn giữ Trương mỗ lại nên bày thành trận thế, thật là coi trọng kẻ hèn này quá.
Hán tử đứng giữa hơi ngần ngừ, hạ kiếm xuống mở đường cho đi. Trương Thúy Sơn nói:
- Tố Tố, em đi trước.
Ân Tố Tố ôm Vô Kỵ đang toan tiến lên, bỗng nghe tiếng gió, năm thanh trường kiếm cùng nhắm thẳng vào Vô Kỵ. Ân Tố Tố giật mình, vội vàng lùi lại. Năm người đó lập tức tiến tới, mũi kiếm không ngừng rung động, trước sau vẫn cách thân hình Vô Kỵ chừng một thước.
Du Liên Châu hai chân nhún một cái, nhảy qua đầu mọi người trở lại trong vòng hai tay đập luôn bốn cái, mỗi cái vỗ trúng cổ tay một người áo đen, bốn thanh kiếm đang chỉ vào Vô Kỵ lập tức bay vọt lên trời. Bốn cái vỗ đó thật nhanh, hất bốn thanh kiếm văng đi, tay trái chàng lập tức lật một vòng nắm luôn cổ tay người thứ năm, ngón tay trỏ thuận thế điểm luôn vào huyệt đạo ở cổ tay người đó, nhưng thấy tay y mềm mại nhẵn nhụi, hình như là tay đàn bà, nên vội bỏ ra. Người đó cổ tay tê chồn, nghe keng một tiếng, kiếm rơi xuống đất.
Năm người bị mất kiếm lập tức lùi lại. Dưới ánh trăng thấp thoáng, lại có hai thanh kiếm khác đâm tới, nhưng thấy đâm ngang, lưỡi kiếm quay sang hai bên tả hữu, hai người cùng sử chiêu Đại Mạc Bình Sa, nhưng không sử kình, dường như không có ý đả thương người.
Du Liên Châu nghĩ thầm: ?Côn Lôn kiếm pháp, thì ra họ thuộc phái Côn Lôn?. Đợi kiếm đến cách ngực chừng ba tấc, đột nhiên chàng hóp ngực lại, hai tay khua một vòng, hai ngón tay trỏ đồng thời búng vào lưỡi kiếm.
Cái búng đó chàng sử dụng Võ Đương tâm pháp, đúng ra trường kiếm đối phương phải tuột ra khỏi tay mới phải, nào ngờ ngón tay và thanh kiếm đụng nhau, thấy từ thanh kiếm có một luồng nhu kình, hóa giải một nửa lực đạo của chàng, nên kiếm không rơi xuống. Thế nhưng hai người đó vẫn chịu không nổi, lục tục lui về sau ba bước. Một người đứng không vững, ngã phịch xuống đất, còn người kia kêu lên "Ối chao" một tiếng, ọc ra một ngụm máu tươi.
Từ khi gặp họ đem sáu chiếc thuyền ra chặn đến giờ họ chưa lên tiếng, lúc này kêu lên ?Ôi chao?, tiếng nói thanh thoát, nghe như tiếng đàn bà. Người áo đen đứng giữa lập tức giơ tay vẫy một cái, cả bọn quay mình bỏ chạy, chỉ giây lát biến mất vào trong các bụi cây thấp chung quanh. Những người đó quá nửa thân hình yểu điệu, hiển nhiên đàn bà mặc giả đàn ông. Du Liên Châu lớn tiếng nói:
- Du nhị, Trương ngũ gửi lời hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh, xin tha cho tội vô lễ.
Những người áo đen đó không trả lời, nghe văng vẳng có người cười khẩy một tiếng, đúng là giọng phụ nữ. Ân Tố Tố để Vô Kỵ xuống đất, nắm chặt tay con, nói:
- Những người này quá nửa là đàn bà. Nhị bá, bọn họ là người của phái Côn Lôn đấy ư?
Du Liên Châu đáp:
- Không đâu, phái Nga Mi đấy.
Trương Thúy Sơn lạ lùng hỏi:
- Phái Nga Mi ư? Vậy sao sư ca lại nói là ?hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh??
Du Liên Châu thở dài đáp:
- Bọn họ trước sau không nói một lời, mặt lại bịt khăn đen, chính là vì không muốn mình biết chân diện mục của họ. Năm thanh kiếm nhắm vào Vô Kỵ, chính là Hàn Mai Kiếm Trận của phái Côn Lôn. Hai người đâm vào ta, cũng sử dụng chiêu Đại Mạc Bình Sa của phái Côn Lôn. Bọn họ đã mạo xưng phái Côn Lôn, mình cũng giả vờ như không biết, nên hỏi thăm chưởng môn phái Côn Lôn Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung.
Ân Tố Tố hỏi:
- Vậy sao nhị bá biết họ là người của phái Nga Mi? Nhận ra được người nào trong bọn chăng?
Du Liên Châu đáp:
- Không đâu. Những người đó công lực không lấy gì làm thâm hậu, chắc phải là hạng đồ tôn của chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái, hoặc là những tiểu đệ tử của bà ta, làm sao ta nhận ra được. Thế nhưng nhu kình hóa giải chỉ lực khi ta búng vào thanh kiếm, chính là Nga Mi tâm pháp. Học vài chiêu trận thức của môn phái khác không khó khăn gì, nhưng một khi sử dụng nội kình, chân tướng không thể nào che dấu được.
Trương Thúy Sơn gật đầu:
- Nhị ca dụng chỉ kích kiếm, nếu như họ buông kiếm ra thì tốt, bị thương nhẹ thôi. Nội công phái Nga Mi rất hay, nhưng có điều là nếu công lực chưa đủ mà vận lên sử dụng, gặp phải cao thủ, không khỏi không bị hại ghê gớm. Nếu nhị ca thực sự coi họ là kẻ địch, hai cô ả đó đã chết lăn ra rồi. Có điều phái Nga Mi đối với mình trước nay vẫn có chiều nể nang.
Du Liên Châu đáp:
- Ân sư khi còn trẻ đã từng được tổ sư sáng phái của Nga Mi là Quách Tương, Quách nữ hiệp đối đãi tử tế, thành thử lão nhân gia vẫn thường căn dặn kỹ càng không được đắc tội với môn hạ đệ tử của phái Nga Mi, để bảo tồn cái tình hương lửa khi xưa. Khi ta búng tay vào kiếm thấy nội kình của đối phương có điều không ổn, rút về không kịp nữa rồi, thành ra làm cho hai người bị thương. Tuy đó chỉ là vô tâm thất thố thôi, nhưng cũng vi phạm lời căn dặn của ân sư.
Ân Tố Tố nói:
- Cũng may là sau cùng nhị bá nói là xin lỗi Thiết Cầm tiên sinh nên không thực sự đắc tội với phái Nga Mi.
Lúc đó chiếc thuyền họ đi đã theo dòng trôi xuống hạ lưu rồi, không còn thấy đâu nữa. Sáu chiếc thuyền nhỏ cũng chìm mất, những người chèo thuyền ướt như chuột lột lóp ngóp bò lên bờ. Ân Tố Tố hỏi:
- Những người này cũng thuộc phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu hạ giọng nói nhỏ:
- Đa số thuộc Lương Thuyền bang ở Sào Hồ.
Ân Tố Tố nhìn năm thanh kiếm lấp loáng ánh trăng nằm dưới đất, đang toan cúi xuống nhặt lên xem. Du Liên Châu nói:
- Đừng đụng tới binh khí của họ, nếu như trên kiếm có khắc tên người, sau này mình không thể nào giả vờ không biết được. Thôi mình đi.
Ân Tố Tố lúc này kính phục vị nhị bá bá này không để đâu cho hết nên đáp lời:
- Vâng.
Nắm tay Vô Kỵ đi lên con đường lớn cạnh bờ sông.
Đi qua một hàng cây thấp, thấy tại đằng trước cách mấy trượng dưới một cây liễu lớn có buộc ba con ngựa. Vô Kỵ mừng rỡ kêu lên:
- Có ngựa kìa, có ngựa kìa.
Thằng nhỏ ở trên Băng Hỏa đảo chưa từng thấy ngựa bao giờ, về đến Trung Thổ muốn được cưỡi ngựa nhưng chỉ đi bằng thuyền nên chưa có dịp.
Bốn người đến gần cây liễu thấy thân cây có gài một tờ giấy. Trương Thúy Sơn lấy xuống xem thấy viết:
- Kính tặng ba con ngựa để tạ tội làm hỏng thuyền.
Hàng chữ đó bằng than, viết vội nên hơi tháu, nét chữ mềm mại, rõ ràng là do đàn bà. Ân Tố Tố cười:
- Các cô phái Nga Mi dùng bút than vẽ lông mày để viết thư cho các đại hiệp của phái Võ Đương.
Du Liên Châu nói:
- Các cô này cũng lễ phép quá sức.
Nói xong chàng cởi giây buộc ngựa, ba người chia nhau cưỡi. Vô Kỵ ngồi trong lòng mẹ, rất lấy làm thích thú. Trương Thúy Sơn nói:
- Hình tích của mình nay đã lộ rồi, đi thuyền hay cưỡi ngựa cũng thế thôi.
Du Liên Châu đáp:
- Đúng thế. Trên đường thể nào mình cũng gặp người làm phiền, nếu như bất đắc dĩ phải giao đấu, mình cũng không nên mạnh tay.
Chàng vô tình làm bị thương hai đệ tử của phái Nga Mi, trong lòng áy náy không yên. Ân Tố Tố thấy hối hận, nghĩ thầm: ?Nhị bá chỉ mới ra tay hơi nặng một tí, bản ý không phải là đả thương người, chỉ cốt ép đối phương phải buông kiếm, họ vì gượng lại nên bị thương. So với ta năm xưa cố ý giết biết bao nhiêu đệ tử của phái Thiếu Lâm, chẳng cần biết nặng nhẹ là gì, thật không thể nào nói vào đâu được. Một thân làm tội, một thân chịu, về sau mình không thể để cho nhị bá phải phiền phức?. Nàng bèn nói:
- Nhị bá, những người này cũng chỉ vì vợ chồng em mà đến, còn đối với anh thật là cung kính. Nếu trên đường đi còn gặp ai cản trở, hãy để cho đệ muội đánh đuổi họ cũng được, nếu không xong, lúc ấy mới nhờ đến nhị bá ra tay tương viện.
Du Liên Châu nói:
- Cô nói thế có khác gì người ngoài. Chúng ta huynh đệ đồng sinh cộng tử, còn phân biệt anh tôi cái gì?
Ân Tố Tố không tiện nói thêm, hỏi lại:
- Bọn họ biết rõ nhị bá đi cùng với vợ chồng em, sao lại chỉ phái mấy đệ tử nhỏ tuổi đến ngăn đường?
Du Liên Châu đáp:
- Có lẽ vì việc gấp gáp, không kịp điều động cao thủ.
Trương Thúy Sơn thấy hành vi của các cô gái phái Nga Mi, áng chừng họ muốn biết tung tích Tạ Tốn, nói:
- Thì ra nghĩa huynh cũng có gây thù chuốc oán với phái Nga Mi, tiểu đệ ở Băng Hỏa đảo không nghe nói tới.
Du Liên Châu thở dài:
- Phái Nga Mi môn qui rất nghiêm, trong môn phái đại đa số là nữ đệ tử, Diệt Tuyệt sư thái trước nay không cho nữ đệ tử tùy tiện hành tẩu giang hồ. Kỳ này phái Nga Mi lại đến gây khó khăn cho Thiên Ưng giáo, bọn ta lúc đầu cũng hơi lấy làm lạ, mãi đến gần đây mới hiểu nguyên do. Thì ra Kim Qua Chùy Phương Bình Phương lão anh hùng ở Lan Phong, Hà Nam một hôm đột nhiên bị hại, trên tường có hàng chữ ?Giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn? viết bằng máu.
Ân Tố Tố hỏi lại:
- Vậy Phương Bình là người của phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu đáp:
- Không. Diệt Tuyệt sư thái khi chưa xuất gia vốn họ Phương. Phương lão anh hùng chính là anh ruột của bà ta.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đồng thời cùng ?A? một tiếng.
Vô Kỵ đột nhiên hỏi:
- Nhị bá, thế Phương lão anh hùng là người tốt hay là người xấu?
Du Liên Châu đáp:
- Nghe nói Phương lão anh hùng chỉ làm vườn, đọc sách, xưa nay không giao thiệp với ai, dĩ nhiên không phải là người xấu.
Vô Kỵ nói:
- Ồ, nghĩa phụ giết người bừa bãi như thế, thật không đúng chút nào.
Du Liên Châu mừng lắm, vươn cánh tay dài, nhắc thằng bé từ trong lòng mẹ qua ôm nó, xoa đầu nói:
- Hài tử, cháu biết không nên giết người bừa bãi, nhị bá rất vui lòng. Người chết rồi không sống lại được, ngay cả những người tội nghiệt thâm trọng, cùng hung cực ác, cũng không nên tùy tiện giết, mà nên để cho họ một đường hối cải.
Vô Kỵ nói:
- Nhị bá, cháu cầu xin bác một điều.
Du Liên Châu hỏi:
- Điều gì?
Vô Kỵ nói:
- Nếu họ tìm thấy nghĩa phụ, bác bảo họ đừng giết cha nuôi của cháu. Nghĩa phụ mắt mù rồi, không đánh lại họ đâu.
Du Liên Châu trầm ngâm một hồi, nói:
- Việc đó bác không đáp ứng được. Chỉ có điều bác sẽ nhất quyết không giết cha nuôi của cháu thôi.
Vô Kỵ thừ người không nói, mắt rươm rướm ướt.
Khi trời sáng, bốn người đến một thị trấn, tại khách điếm ngủ đến nửa ngày, đến quá trưa mới lên đường. Có khi Ân Tố Tố và trượng phu cưỡi chung một ngựa, để cho Vô Kỵ một mình cầm cương cho thích. Vô Kỵ dẫu sao cũng là trẻ con, cưỡi ngựa một hồi, quên ngay cái chuyện lo lắng cho Tạ Tốn.
Đường đi không xảy ra chuyện gì, hôm sau đã đến Hán Khẩu. Trưa hôm đó họ gần đến An Lục bỗng thấy trên đường có hơn chục người khách thương chạy xuống, thấy bọn Du Liên Châu bốn người, vội vàng xua tay, kêu lớn:
- Mau quay đầu, mau quay đầu, đằng trước có binh đội Thát Đát đang giết người cướp của.
Một người nói với Ân Tố Tố:
- Đàn bà con gái như cô đừng có lớn mật, gặp bọn Thát Đát không phải chuyện đùa đâu.
Du Liên Châu hỏi:
- Có bao nhiêu Thát tử?
Một người đáp:
- Chừng chục đứa, hung ác ghê gớm lắm.
Nói xong lại chạy thục mạng về hướng đông. Võ Đương thất hiệp trước nay căm ghét thậm tệ bọn Nguyên binh tàn hại dân lành. Trương Tam Phong bình thời giáo huấn đệ tử rất nghiêm, không ai được tùy tiện động thủ với người khác. Thế nhưng nếu gặp quan quân làm điều tàn ác thì được ra tay không phải dung tình. Thành thử Võ Đương thất hiệp nếu gặp đại đội Nguyên binh đánh phải né tránh, nhưng nếu gặp ít kẻ hành hung, lập tức trừ khử. Du Trương hai người nghe nói chỉ có chừng một chục quân Nguyên, nghĩ thầm đúng là dịp tốt trừ hại cho dân, lập tức giục ngựa chạy về phía trước.
Đi được chừng ba dặm, quả nhiên nghe thấy tiếng kêu thảm thiết. Ngựa của Trương Thúy Sơn đi đầu, thấy hơn một chục quân Nguyên tay cầm cương đao, trường mâu, đang lùa mấy chục người dân lại để tàn sát, máu chảy vung vãi đầy mặt đất, có bảy tám người đầu một nơi, thân một nẻo. Một tên quân Nguyên cầm một đứa trẻ chừng ba bốn tuổi, giơ chân đá mạnh khiến đứa trẻ tung vọt lên không. Đứa bé ở trên trời kêu la, khi rơi xuống lại gặp một tên khác đá lên, chẳng khác gì người ta đá chuyền banh qua lại. Chỉ qua mấy lần, đứa trẻ không còn kêu khóc gì nữa, hẳn đã chết rồi. Trương Thúy Sơn nổi giận, từ trên lưng ngựa nhảy vọt xuống, chân chưa chạm đất, nghe một tiếng bình, đã đấm trúng ngực một tên Nguyên binh đang đá đứa trẻ. Tên đó kêu ối một tiếng ngã lăn ra. Một tên nguyên binh khác giơ cây giáo dài đâm luôn vào lưng Trương Thúy Sơn.
Vô Kỵ sợ hãi kêu lên:
- Gia gia coi chừng.
Trương Thúy Sơn quay đầu lại, cười đáp:
- Con coi cha đánh bọn Thát tử.
Thấy trường mâu còn cách ngực chừng nửa thước, tay trái chàng khua một cái, chộp được cán thương, tiếp theo đâm mạnh về trước, cán mâu liền đâm vào ngực tên Nguyên binh. Tên đó kêu lên một tiếng lăn quay ra xem chừng không sống được nữa.
Bọn quân Nguyên thấy Trương Thúy Sơn dũng mãnh như thế, kêu lên một tiếng, bốn phía vây chàng lại. Ân Tố Tố cũng nhảy xuống ngựa, cướp lấy một thanh đao dài chém chết luôn hai đứa. Bọn quân Nguyên xem chừng không xong, bỏ chạy tứ tán. Thế nhưng bọn này hung ác thành tính, trong khi chạy trốn, vẫn còn vung đao loạn sát những người dân. Du Liên Châu nổi giận, kêu lên:
- Không để cho bọn chúng chạy thoát.
Chàng lao vụt ra hướng tây, chặn bốn tên quân Nguyên. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cũng chia ra chặn bọn còn lại. Ba người biết rằng bọn quân Nguyên tuy hung ác thật nhưng võ công chỉ bình thường, Vô Kỵ so với bọn chúng còn cao hơn nhiều nên không cần phân tâm lo lắng.
Vô Kỵ cũng nhảy xuống ngựa, thấy nhị bá và phụ thân nhảy nhót như bay, vỗ tay kêu lên:
- Hay quá, hay quá.
Đột nhiên, tên quân Nguyên bị Trương Thúy Sơn dùng cán mâu đâm bất tỉnh hồi nãy bất ngờ nhỏm dậy, giơ tay ôm lấy Vô Kỵ, xoay mình nhảy lên lưng ngựa, giựt cương chạy đi. Du Liên Châu và vợ chồng Trương Thúy Sơn kinh hãi, cùng kêu lên đuổi theo. Du Liên Châu chỉ nhún mình hai cái đã đến đằng sau con ngựa, tay trái đánh ra một chưởng, thân hình cũng chồm theo nhắm đúng hậu tâm tên Nguyên binh. Tên đó không quay đầu, đánh ngược lại một chưởng. Chỉ nghe bộp một tiếng, hai chưởng đụng nhau. Du Liên Châu thấy chưởng lực đối phương như bài sơn đảo hải, một luồng nội lực cực kỳ âm hàn truyền thẳng qua, lập tức toàn thân lạnh buốt thấu xương, thân hình lảo đảo mấy cái, loạng choạng lùi về sau ba bước.