Vũ Cao
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ rất làng!
Xuân Dục Đoài Đông hai gánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi !
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
Mới ngỏ lời thôi, đành lỡ hẹn,
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình, năm lại năm.
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng?
Anh nghĩ: quê ta giặc chiếm rồi,
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi…
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Qua mấy mùa đông anh tự nhủ:
Trung du ngày tháng vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh nghé thăm nhà thăm núi Đôi
Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi , dưới gốc thông,
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành chết thủy chung
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau,
Nứa gianh nửa mái nhà che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau
Em mất để làng ta sống mãi
Lúa sẽ nhiều bông, bắp sẽ nhiều…
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng còn núi kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này
Ai biết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng tên sáng lạ lùng
Nhớ nhau, anh gọi em đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm!